Sự vắng mặt của khách du lịch Trung Quốc
Theo báo cáo của Savills, hoạt động kinh doanh khách sạn ở hầu hết các quốc gia trên thế giới đang dần trở lại mức trước đại dịch, ngoại trừ khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Tại Đông Nam Á, Singapore đang dẫn đầu quá trình phục hồi, chủ yếu nhờ sự tăng trưởng của giá phòng trung bình hàng ngày (ADR). Thái Lan cũng đang có mức độ phục hồi tốt.
Ngược lại, hoạt động kinh doanh khách sạn của Việt Nam vẫn ở dưới mức trước đại dịch, thể hiện qua cả tỷ lệ lấp đầy phòng và giá phòng trung bình.
“Các yếu tố ảnh hưởng đến thị trường nghỉ dưỡng Việt Nam có thể chia thành các loại ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, mỗi yếu tố ảnh hưởng đến sự phục hồi của thị trường một cách khác nhau.
Trong ngắn hạn, sự vắng mặt của khách du lịch Trung Quốc, vốn chiếm 32% tổng lượng khách quốc tế đến Việt Nam năm 2019, là thách thức không nhỏ đối với các doanh nghiệp nghỉ dưỡng. Ngoài ra, chi phí bay đường dài ngày càng tăng đang ảnh hưởng đến sự phục hồi của một số thị trường, chẳng hạn như thị trường khách châu Âu. So với cùng kỳ năm 2019, tổng lượng du khách châu Âu đến Việt Nam vẫn thấp hơn khoảng 38%”, ông Mauro Gasparotti, Giám đốc Savills Hotels phân tích.
Trong 8 tháng đầu năm 2023, thị trường khách châu Á cũng giảm 32% so với mức trước đại dịch. Hàn Quốc hiện là thị trường khách quốc tế lớn nhất đến Việt Nam nhưng tổng lượng khách vẫn thấp hơn năm 2019.
Thị trường Trung Quốc đang dần hồi phục với tổng lượng khách là 950.000 lượt, nhưng chỉ bằng 28% so với mức của năm 2019. Thị trường khách Mỹ và Australia giảm khoảng 8% so với năm 2019, đạt tổng cộng 900.000 lượt khách, chủ yếu đến từ Mỹ và Australia.
Nguồn cung tăng nhanh
Ngoài nhu cầu phục hồi chậm, tình trạng dư cung, chủ yếu ở các điểm đến ven biển, càng làm tăng thêm những thách thức mà các doanh nghiệp khách sạn phải đối mặt. Theo thống kê từ Savills Hotels, kể từ năm 2016, trung bình mỗi năm có khoảng 15.000 phòng ở phân khúc trung đến cao cấp gia nhập thị trường lưu trú. Kết quả là nguồn cung phòng đã tăng gấp đôi chỉ sau sáu năm.
Tác động cộng hưởng của các yếu tố cung cầu đã khiến hoạt động kinh doanh khách sạn tại Việt Nam phục hồi chậm hơn so với các nước trong khu vực. Tính đến 8 tháng đầu năm, tỷ lệ lấp đầy phòng trung bình tại thị trường Việt Nam dao động quanh mức 40%. Ngược lại, Thái Lan, Philippines, Indonesia và Malaysia đều vượt mốc 50%, trong đó Singapore đạt gần mức 75%.
Với tỷ lệ lấp đầy này, thị trường Việt Nam vẫn tụt hậu so với mức trước đại dịch gần 20%. Tuy nhiên, quá trình phục hồi không đồng đều ở tất cả các điểm đến. So với các địa điểm khác, Nha Trang – Cam Ranh và Phú Quốc phải đối mặt với thách thức đáng kể hơn trong việc cải thiện công suất phòng.
Tại Phú Quốc, công suất phòng trung bình chỉ ở mức 30%, khiến nơi đây trở thành một trong những thị trường hoạt động kém hiệu quả nhất ở Đông Nam Á. Công suất phòng ở khu vực Nha Trang - Cam Ranh cũng ở mức tương tự nhưng giá phòng trung bình thấp hơn 100 USD/đêm.
Ngược lại, thị trường TP.HCM và Hà Nội tuy vẫn ở dưới mức trước đại dịch nhưng đang phục hồi tốt hơn các thị trường ven biển và đạt tỷ lệ lấp đầy phòng trung bình trên 60%.
Nhìn chung, các khách sạn từ trung đến cao cấp đang có sự phục hồi tốt hơn về giá phòng trung bình so với tỷ lệ lấp đầy phòng. Trong 8 tháng đầu năm 2023, giá phòng trung bình trên toàn thị trường đạt khoảng 120 USD/đêm, tiệm cận mức trước đại dịch.
Thị trường nội địa vẫn là động lực chính hỗ trợ hoạt động du lịch ở Việt Nam. Trong 8 tháng đầu năm 2023, ngành du lịch Việt Nam đón 86 triệu lượt khách nội địa, đánh dấu mức tăng 7,8% so với cùng kỳ năm ngoái. Đây được kỳ vọng sẽ là chất xúc tác tăng trưởng cho ngành du lịch trong trung và dài hạn.
“Việc thành lập các văn phòng đại diện để quảng bá du lịch Việt Nam trên thị trường quốc tế là rất cần thiết, nhất là khi các nước trong khu vực đang cạnh tranh gay gắt để thu hút khách quốc tế quay trở lại. Chẳng hạn, khi nói đến du lịch biển, hình ảnh của Phú Quốc trên thị trường quốc tế vẫn còn tụt hậu so với các hòn đảo nổi tiếng khác. các điểm đến như Phuket, Bali, Boracay… Bên cạnh Phú Quốc, các điểm đến mới nổi như Hồ Tràm, Quy Nhon, Mũi Né cũng sẽ được hưởng lợi từ chiến lược xúc tiến thị trường quốc tế hiệu quả nếu được quy hoạch và thực hiện tốt”, ông Mauro Gasparotti nhận định.
Mặc dù ngành nghỉ dưỡng Việt Nam được đánh giá là có nhiều triển vọng nhưng không phải mô hình kinh doanh nào cũng có thể hoạt động hiệu quả. Theo Savills, một số nhà đầu tư vội vàng tham gia thị trường mà không đánh giá kỹ lưỡng về điều kiện thị trường địa phương, cho rằng tất cả các mô hình kinh doanh khách sạn đều giống nhau. Điều này có thể dẫn đến các dự án được lập kế hoạch và thực hiện kém, hạn chế khả năng vận hành sau khi hoàn thành. Tùy thuộc vào thực tế thị trường, một số mô hình khách sạn có tiềm năng hoạt động hiệu quả cao hơn.
Việt Nam cũng có lợi thế phát triển các khu nghỉ dưỡng cao cấp, phân khúc duy trì mức tăng trưởng tốt trên toàn thế giới, ngay cả trong giai đoạn thị trường đầy thách thức, cho thấy tiềm năng tăng trưởng đáng kể trong thời gian tới. Ngoài ra, các mô hình tầm trung phục vụ khách du lịch trẻ tuổi, chẳng hạn như khách sạn có dịch vụ hạn chế, cũng được coi là có tiềm năng tăng trưởng đáng kể. Các mô hình này thường yêu cầu đầu tư ban đầu thấp hơn và phù hợp với những điểm đến phát triển tốt với nhu cầu tăng trưởng ổn định, theo đánh giá của các chuyên gia Savills.
Savills cho biết thêm rằng để Việt Nam nâng cao khả năng cạnh tranh trên bản đồ du lịch toàn cầu, ngành cần có chiến lược dài hạn hơn, tập trung vào du lịch sinh thái, du lịch bền vững, du lịch y tế và các sản phẩm hướng đến du khách lớn tuổi cũng như các hoạt động trải nghiệm, giải trí. trong các khu nghỉ dưỡng phức hợp.